Pháp luật Việt Nam quy định như thế nào đối với tội mua bán người
(
17/3/2010
)
Pháp luật Việt Nam quy định như thế nào đối với tội mua bán ngườiLuật sư Vũ Tiến Vinh, Công ty Luật Bảo An (Hà Nội) giúp các bạn hiểu rõ Pháp luật Việt Nam đã quy định như thế nào đối với tội danh nói trên.
Luật sư Vũ Tiến Vinh, Công ty Luật Bảo An (Hà Nội) giúp các bạn hiểu rõ Pháp luật Việt Nam đã quy định như thế nào đối với tội danh nói trên.
Bộ luật Hình sự đầu tiên năm 1985 đã quy định tội danh và hình phạt đối với hành vi mua bán phụ nữ. Đến năm 1999, Bộ luật Hình sự mới có bổ sung một số quy định cho phù hợp với tình hình mới.
Theo quy định tại Điều 119 Bộ Luật Hình sự 1999, hành vi mua bán phụ nữ là những hành vi dùng tiền hoặc phương tiện thanh toán khác như vàng, ngoại tệ… để trao đổi mua bán phụ nữ, coi phụ nữ như một thứ hàng hóa, xâm hại trực tiếp nhân phẩm, danh dự, quyền tự do của người phụ nữ.
Khi việc mua bán xảy ra, người phụ nữ có thể biết hoặc không biết mình là đối tượng bị mua bán; có thể không đồng tình nhưng cũng có thể đồng tình với việc mua bán bản thân mình. Song, dù người phụ nữ đồng ý cho việc mua bán này thì người có hành vi mua bán phụ nữ vẫn phạm tội.
Hậu quả của hành vi mua bán phụ nữ là người phụ nữ đã bị đem ra mua bán, Nếu người phạm tội đã thực hiện hành vi tìm người, liên hệ nơi bán, thỏa thuận giá cả nhưng chưa thực hiện việc mua bán thì được xác định là phạm tội chưa đạt và vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tội “Mua bán trẻ em” (Điều 120) và Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 xác định nữ giới từ 16 tuổi trở lên được coi là phụ nữ và có thể là đối tượng của tội Mua bán phụ nữ.
Tội mua bán phụ nữ là tội phạm nghiêm trọng, do vậy người từ đủ 14 tuổi trở lên nếu có hành vi mua bán phụ nữ thì đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Theo thống kê thì trước đây người phạm tội mua bán phụ nữ thường là người thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên). Tuy nhiên thời gian gần đây xuất hiện nhiều trường hợp người phạm tội mới chỉ 15, 16 tuổi tham gia với tư cách đồng phạm.
Về hình phạt, điều luật quy định hai khung:
Khung 1 (khung cơ bản): có mức hình phạt từ 2 đến 7 năm.
Khung 2 (khung tăng nặng): có mức hình phạt từ 5 năm đến 20 năm khi người phạm tội có một trong các hành vi sau:
·Mua bán phụ nữ vì mục đích mại dâm.
·Có tổ chức là từ 2 người trở tên, có sự phân công vai trò, trách nhiệm của từng người trong hành động.
·Có tính chất chuyên nghiêp là việc người phạm tội coi việc mua bán phụ nữ là nguồn thu nhập chính, sống chủ yếu dựa vào hoạt động phạm tội này.
·Để đưa ra nước ngoài là đưa người phụ nữ ra khỏi biên giới Việt Nam. Khi có hành vi chuẩn bị và tiến hành đưa ra nước ngoài là tội phạm hoàn thành, không cần phải đưa trót lọt người phụ nữ ra nước ngoài.
·Mua bán nhiều người là từ 2 người trở lên.
·Mua bán nhiều lần là từ 2 lần trở lên mà những lần này đều chưa bị phát hiện và xử lý.
Ngoài hình phạt nêu trên, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 1 năm đến 5 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.
Mặc dù tội mua bán phụ nữ được quy định khá đầy đủ trong Bộ luật Hình sự năm 1999, trong thời gian qua đã xuất hiện một số hành vi mà Điều luật chưa quy định. Do vậy, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự đã được Quốc hội thông qua ngày 19 - 6 - 2009 đã sửa đổi Điều 119 Tội mua bán phụ nữ thành “tội mua bán người” và có hiệu lực từ ngày 01-01-2010.
Như vậy, theo Luật sửa đổi thì đối tượng của tội phạm không chỉ còn là phụ nữ mà còn có cả nam giới.
CÔNG TY LUẬT BẢO AN Địa chỉ: Phòng 302 tòa nhà số 11 ngõ 183 Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, TP. Hà Nội. Điện thoại: 024.6276 4938, Mobile/Zalo: 0945 888 668 Email: luatbaoan@gmail.com website: http://www.luatbaoan.vn - http://luatbaoan.com.vn - http://luatbaoan.com
Thiết kế web bởi haanhco.,ltd