Ly thân là hiện tượng khá phổ biến hiện nay trong đời sống xã hội, chưa
được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình. Do vậy, thời gian ly
thân vẫn được xác định là trong thời kỳ hôn nhân (là khoảng thời gian
tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt
hôn nhân).
Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình quy định tài sản chung của vợ chồng
gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân. Tài sản vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung
của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết
hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Pháp luật về hôn nhân và gia đình cũng quy định việc chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân. Theo đó, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh
doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng
khác thì vợ chồng có thể thoả thuận chia tài sản chung; việc chia tài
sản chung phải lập thành văn bản. Kể từ thời điểm việc phân chia tài sản
chung có hiệu lực thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được
chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia
vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
Như vậy, với những quy định nêu trên thì nếu trước khi bạn ra nước
ngoài làm việc mà vợ chồng bạn không có văn bản thỏa thuận rằng những
tài sản bạn tạo lập được trong thời gian bạn ở nước ngoài là thuộc sở
hữu riêng của bạn thì những tài sản đó vẫn được coi là chung của vợ
chồng và vợ bạn có quyền yêu cầu tòa án chia theo quy định của pháp
luật.
Luật sư Vũ Tiến Vinh Công ty Luật Bảo An, Hà Nội
|